Cơ bản về báo cáo tài chính và các chỉ số đánh giá doanh nghiệp.

Báo cáo tài chính doanh nghiệp có 3 loại cơ bản, báo cáo tài sản (balance sheet), báo cáo hoạt động kinh doanh (income statement),  báo cáo dòng tiền (cash flow). 

Báo cáo kết quả kinh doanh

Doanh nghiệp giống như một cỗ máy sinh ra tiền. Nguyên liệu chính của cỗ máy là tiền, kết hợp với bản thân hạ tầng của cỗ máy để sản sinh ra nhiều tiền hơn thông qua các vòng quay kinh doanh.

Một vòng quay tương ứng với một lần lấy tiền mua hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ để cung cấp bán lấy lời, thu lại tiền cho vòng quay tiếp theo. Trong một năm tài chính, có thể có nhiều vòng quay như thế, mỗi vòng quay đều sinh lời, tổng số lời tích tụ lại trong 1 năm được tính làm lợi nhuận. 

Báo cáo hoạt động kinh doanh sẽ theo dõi các vòng quay kinh doanh ở trên, tổng kết quá trình hoạt động của cỗ máy trong 1 năm. Bao nhiêu vòng quay (inventory turnover), thời gian mỗi vòng quay, chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động, tổng lời… 

Báo cáo tài sản thể hiện nguồn lực của công ty dành cho các hoạt động kinh doanh. Báo cáo sẽ ghi chép lại tài sản (tiền, hạ tầng máy móc…) theo hai cách khác nhau, đầu vào và đầu ra, cả hai đầu đều có tổng cùng một giá trị.

Mỗi tài sản đều được mua bởi tiền, tiền đấy chỉ có thể là đi vay hoặc của bản thân công ty. 

Ghi chép đầu vào sẽ kiểm kê các khoản nợ và các khoản thuộc sở hữu của công ty. Khoản nợ chia ra làm hai loại, nợ ngắn hạn phải trả trong năm nay và nợ dài hạn phải trả trong nhiều năm tới.

Còn đầu ra kiểm kê các tài sản được chuyển hóa từ tiền đầu vào, trong đó có hai loại tài sản: tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn.

Tài sản dài hạn tương ứng với hạ tầng của cỗ máy và một số loại tài sản khác, được dùng để phục vụ cho nhiều vòng quay kinh doanh hoặc sản sinh dòng tiền đều đặn dài hạn (khoản cho vay dài hạn, bất động sản cho thuê…).

Tài sản ngắn hạn là tiền hoặc khoản được biến ra từ tiền trong mỗi vòng quay (mà chưa trở lại thành tiền nhưng có khả năng trở lại thành tiền sớm) như các khoản phải thu, hàng tồn kho, chứng khoán sẵn sàng để bán…. 

Báo cáo dòng tiền tập trung vào việc ghi chép tiền ra tiền vào doanh nghiệp trong mỗi năm. Dòng tiền quan trọng vì nó cho biết công ty có khả năng hoạt động tiêp không. Doanh thu vẫn ghi nhận đều trên báo cáo kết quả kinh doanh, nhưng vốn bị đối tác chiếm dụng hết, không có tiền trả nhân viên thì doanh nghiệp cũng dễ sập, chẳng hạn…

Có ba loại dòng tiền chính: tiền ra vào trong các vòng quay kinh doanh (CFO – tiền mua hàng, bán hàng…), tiền ra vào trong hoạt động đầu tư vào tài sản dài hạn như hạ tầng máy móc (CFI – tiền mua máy móc, thanh lý…), tiền ra vào sau khi kêu gọi thêm vốn (CFF – tiền đầu tư, tiền trả cổ tức).

Dòng tiền kinh doanh phát sinh chủ yếu từ thu nhập ròng, nên hay được tính từ thu nhập ròng, điều chỉnh các khoản chi phí phi tiền mặt (khấu hao…) và một số khoản mục khác. 

Sử dụng ba báo cáo tài chính, nhà phân tích tính toán các chỉ số để xét nghiệm tình hình tài chính của công ty xem có khỏe mạnh không.

Activity ratios: Đánh giá xem công ty hoạt động hiệu quả để tăng doanh thu không 

Tức là với nguồn lực hiện có, liệu doanh thu có tương xứng không, các vòng quay kinh doanh ảnh hưởng tới doanh thu như thế nào…

Một chỉ số đánh giá tương quan giữa số tiền kiếm được trong một năm và nguồn lực hiện có. Nếu nguồn lực ít mà doanh thu lớn có thể suy ra công ty kinh doanh tương đối hiệu quả. 

Liên quan đến các chỉ số về vòng quay kinh doanh, có thể kể đến số vòng quay kinh doanh, thời gian thu các khoản phải thu của 1 vòng quay, thời gian trả các khoản phải trả…

Liquidity ratios: Đánh giá xem công ty có khả năng trả nợ ngắn hạn không 

Nợ ngắn hạn lớn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng duy trì hoạt động của công ty. Sau khi bị siết nợ, công ty không đủ tiền trả lương nhân công, mua hàng hóa mới, tín dụng bị đánh ở mức thấp không xoay được vốn từ các nguồn lớn như ngân hàng…

Các chỉ số thường xem xét tương quan giữa các tài sản ngắn hạn, có thanh khoản cao với khoản nợ ngắn hạn. Càng nhiều tài sản sẵn sàng cho việc trả nợ, công ty càng có nhiều room để đầu tư vào các hoạt động kinh doanh sản xuất sinh lời.

Solvency ratios: Đánh giá xem công ty có khả năng trả nợ dài hạn 

Nợ dài hạn bào mòn lợi nhuận của doanh nghiệp, vì công ty phải trả lãi thường xuyên. Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản cũng là gánh nặng theo công ty suốt nhiều năm, cho đến khi công ty trả hết gốc lẫn lãi. Nếu khả năng trả nợ dài hạn kém, tương lai của công ty trở nên khó đoán định và có thể theo chiều hướng xấu, rủi ro cho nhà đầu tư hay bên cho vay tăng lên.

Các chỉ số thường đánh giá tương quan giữa tổng nợ dài và ngắn hạn với nguồn lực công ty, như tổng tài sản, vốn chủ sở hữu… hoặc phản ánh khả năng thanh toán các thể loại lãi phát sinh từ khoản vay dài hạn. 

Profitability ratios: Đánh giá xem lợi nhuận thu được có tương xứng với doanh thu và nguồn lực bỏ ra không

Lợi nhuận là khoản thu cuối cùng của doanh nghiệp sau khi trừ các loại chi phí, cổ tức,… Đây là khoản nhà đầu tư thu về túi mình nên có ý nghĩa quyết định, trong dài hạn.

Các chỉ số sẽ so sánh lợi nhuận với doanh thu, để xem từ số tiền thu được trong hoạt động kinh doanh, bao nhiêu phần đã ra đi theo các loại chi phí, bao nhiêu phần ở lại… các phần ra đi có thể giảm bớt không. Ngoài ra, các chỉ số cũng so sánh lợi nhuận với nguồn lực (tổng tài sản, vốn chủ sở hữu), để đánh giá cách thức tổ chức nguồn lực và phân bổ đầu tư đã hiệu quả chưa. 

Valuation ratios: Đánh giá xem cổ phiếu rẻ hay đắt

Định giá là phần quan trọng nhất của đầu tư. Thị giá là số tiền mà nhà đầu tư phải bỏ ra để mua cổ phiếu. Lợi nhuận sau thuế là khoản thu nhập mà nhà đầu tư có thể được chia. Tương quan giữa thị giá và lợi nhuận sau thuế (P/E) cho thấy mức độ đắt rẻ của cổ phiếu so với các cổ phiếu khác. Nhưng nó không phản ánh mức độ đắt rẻ so với chính chất lượng của cổ phiếu. Giống như một so sánh các cỗ máy với nhau, cỗ máy xịn có giá cao, cỗ máy rởm có giá thấp, nhưng không thể nói cỗ máy có giá cao là đắt, nếu so với chất lượng của nó. 

Nói một cách đơn giản, giả sử bạn bỏ ra 100 đồng cho vay ngân hàng, cuối năm nhận về 8 đồng, lãi suất 8% bạn dùng lãi suất để quyết định cho vay, thì trong trường hợp của doanh nghiệp P = 100 và E là 8, bạn dùng P/E như một chỉ số đánh giá để quyết định đầu tư. 

Ngoài ra, có thể so sánh thị giá với dòng tiền, với doanh thu, giá trị sổ sách… những khoản phản ánh giá trị của công ty.